Khoai tây (Solanum tuberosum L.) có nguồn gốc ở vùng Nam Mỹ, vừa là cây lương thực, vừa là cây thực phẩm, được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Ở Việt Nam, khoai tây là một trong những cây thực phẩm quan trọng và đặc biệt là một cây hàng hóa có hiệu quả kinh tế cao.
Chỉ trong vòng 90 ngày, từ khi trồng đến khi thu hoạch, cây khoai tây cho giá trị thu nhập cao gấp từ 2 đến 3 lần giá trị thu nhập so với cây lúa. Khoai tây được trồng nhiều ở các tỉnh miền Bắc, Vùng Bắc Trung bộ, Tây Nguyên. Vùng có điều kiện thuận lợi và cũng là vùng sản xuất khoai tây chủ yếu của nước ta là vùng Đồng bằng và Trung du Bắc bộ.
Nội dung chính
1. Lựa chọn đất trồng và giống khoai tây
Đất trồng khoai tây
Cây khoai tây thích hợp với chân đất tơi xốp, đất cát pha, đất thịt nhẹ, đất phù sa ven sông với thành phần cơ giới nhẹ thoát nước và giữ ẩm tốt, quy hoạch tập trung, gọn vùng, chủ động tưới tiêu, tốt nhất là ruộng luân canh với lúa nước.
Tiến hành làm sạch cỏ dại, tàn dư cây trồng vụ trước. Nếu đất còn ướt áp dụng biện pháp làm đất tối thiểu. Nếu đất khô tiến hành cày bừa và lên luống. Đất sau khi gặt lúa xong, cắt rạ sát gốc, tiến hành cày rãnh để thoát nước và chia luống.
- Luống đơn trồng bằng 1 hàng, luống rộng 60 – 70cm, cao 20 – 25cm.
- Luống đôi trồng 2 hàng, luống rộng 120 – 140cm, rãnh rộng: 20 – 40cm, sâu 15 – 20cm.
Việc làm rãnh nhằm mục đích thoát nước, tránh không để úng nước làm thối củ giống và ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển sâu bệnh sau này của cây.
Giống khoai tây
Giống khoai tây có thể để nguyên cả củ trồng và có thể trồng bằng biện pháp cắt củ.
Với các giống khoai tây có kích cỡ lớn, để giảm thiểu đầu tư giống thì việc áp dụng phương pháp cắt dính là rất cần thiết.
Phương pháp này bao gồm các bước sau đây:
Chuẩn bị củ giống:
– Củ giống được đem cắt phải có độ trẻ về sinh lý. Tốt nhất là dùng củ giống từ nguồn nhập khẩu hoặc củ giống được bảo quản trong kho lạnh ở điều kiện 40℃.
– Củ giống phải có khối lượng ít nhất từ 50g/củ trở lên mới đem cắt.
– Củ giống được mang ra cắt phải hết thời gian ngủ nghỉ (đã phát mầm).
Chuẩn bị vật liệu và xử lý dao cắt:
– Vật liệu xử lý: Khi áp dụng cắt củ giống thì việc xử lý dao cắt phải rất chú ý; có thể xử lý dao bằng cồn công nghiệp, lửa đèn cồn hay lửa ngọn nến hoặc nước đun sôi bằng bình siêu tốc.
– Dao cắt: Phải sắc và mỏng, không được dùng dao có bản dày, để tránh làm dập nát tế bào ở chỗ cắt.
– Sau mỗi lần cắt nhất thiết phải xử lý lại dao cắt để tránh lây lan bệnh từ củ bị bệnh sang củ sạch bệnh.
Phương pháp và tiêu chuẩn miếng cắt:
– Cắt dọc củ theo chiều của mầm đỉnh với tiết diện miếng cắt phải là nhỏ nhất, để tránh gây thương tổn không cần thiết.
– Cắt củ giống phải tuân thủ tuyệt đối theo phương pháp cắt dính, nghĩa là miếng cắt không rời hẳn ra mà còn dính lại khoảng 2 – 3 mm.
– Cắt củ xong, phải úp ngay hai miếng cắt còn dính lại với nhau (như trước khi cắt) rồi xếp vào khay đựng hoặc rổ, rá và không được cho vào bao tải ẩm ướt.
– Không cần xử lý củ giống sau cắt với bất kỳ loại hoá chất nào
– Để đảm bảo năng suất khoai tây, mỗi miếng cắt phải có ít nhất 2 mầm trở lên.
– Mỗi củ giống chỉ nên cắt đôi, không nên cắt 3 hay 4.
Phương pháp và thời gian bảo quản củ giống sau cắt:
– Sau khi cắt, củ giống phải được bảo quản trong điều kiện 18 – 200C, thoáng khí.
– Thời gian để miếng cắt lành lại vết thương mất khoảng 7 – 10 ngày. Trước khi trồng 1 – 2 ngày nên tách hẳn miếng cắt ra làm đôi để miếng cắt lành hoàn toàn.
2. Thời vụ trồng khoai tây
Vùng Đồng bằng Bắc bộ
– Vụ Đông Xuân sớm: Trồng đầu tháng 10, thu hoạch vào tháng 12.
– Vụ chính: Trồng từ 15/10 – 15/11, thu hoạch vào cuối tháng 1, đầu tháng 2 năm sau.
– Vụ Xuân: Trồng tháng 12, thu hoạch vào đầu tháng 3 năm sau.
Vùng núi phía Bắc
– Vùng núi thấp <1000m: Vụ Đông trồng tháng 10, thu hoạch tháng 1 năm sau. Vụ Xuân trồng tháng 12, thu hoạch cuối tháng 3.
– Vùng núi cao >1000m: Vụ Thu Đông trồng đầu tháng 10, thu hoạch tháng 1. Vụ Xuân trồng tháng 2, thu hoạch tháng 5.
Vùng Bắc Trung bộ
Chỉ trồng vụ Đông: Trồng đầu tháng 11, thu hoạch cuối tháng 1.
Vùng Tây Nguyên
– Vụ Mùa chính thu hoạch kéo dài trong thời gian mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5.
– Vụ Mùa nghịch thu hoạch trong mùa mưa từ đầu tháng 6 đến tháng 11.
3. Mật độ và khoảng cách trồng khoai tây
– Lượng giống: Trung bình 830 – 1.100 củ/ha (30 – 40kg củ/sào Bắc bộ 360 m2).
– Mật độ: Với củ nhỏ: Cứ 1m2 trồng 10 củ, cách nhau 17 – 20 cm. Với củ bình thường: 1m2 trồng 5 – 6 củ, cách nhau 25 – 30 cm.
4. Cách trồng khoai tây
Cách trồng khoai tây nguyên củ
Rải rơm rạ cắt ngắn hoặc bón lót phân chuồng, đạm và lân xuống đáy rồi lấp 1 lớp đất mỏng lên phân. Đặt củ giống so le nhau, nằm ngang và mầm khoai hướng lên trên.
Chú ý không để củ giống tiếp xúc với phân, nhất là phân hóa học.
Dùng đất bột, mùn, trấu phủ kín củ giống một lớp mỏng; sau đó dùng rơm rạ phủ lên toàn bộ mặt luống khoảng 7 – 10 cm. Tưới nước ướt đều lên mặt luống làm ẩm rơm rạ và đất; nếu độ ẩm đất còn cao không cần tưới. Có thể dùng đất đè lên rơm rạ tránh rơm rạ bay nếu gió mạnh.
Cách trồng khoai tây bổ củ
Rạch hàng trên mặt luống, rải toàn bộ phân chuồng mục và lân vào rạch trộn đều với đất trong rạch. Đặt củ giống hay miếng bổ vào rạch, chú ý tuyệt đối không để củ giống hoặc miếng bổ tiếp xúc trực tiếp với phân. Khoảng cách giữa củ giống (hoặc miếng bổ) 25 – 30 cm.
Mật độ 4 – 5 hốc/m2, hốc cách hốc từ 25 – 30cm, đặt mầm hướng lên trên, rồi phủ kín mầm bằng 1 lớp đất dày từ 3 – 4 cm, không được để hở mầm
5. Bón phân cho khoai tây
Lượng phân bón
– Cho 1 ha: Phân chuồng loại mục: 15 – 20 tấn; Đạm urê: 250 – 300kg; Lân supe: 350 – 400 kg; Kali clorua: 150 – 200 kg.
– Quy ra 1 sào Bắc bộ (360m2): Phân chuồng loại mục: 6 – 7 tạ; Đạm urê: 9 – 10 kg; Lân supe: 12 – 15 kg; Kali clorua: 5 – 7 kg.
Nếu dùng phân NPK cần đọc kỹ hướng dẫn trên bao bì và quy đổi về dạng phân đơn để điều chỉnh lượng bón cho phù hợp và cân đối.
Cách bón
– Bón lót: Rải toàn bộ phân chuồng và lân + 1/3 đạm + 2/3 kali lên trên mặt luống giữa hai hàng khoai.
– Bón thúc lần 1: Sau khi cây mọc cao 15 – 20 cm: 1/3 đạm, 1/3n kali. Bón vào mép luống hoặc giữa 2 khóm khoai, không bón trực tiếp vào gốc cây vì dễ làm cây chết.
– Bón thúc lần 2: Sau thúc lần 1: 15 – 20 ngày: 1/3 đạm, 1/2 kali.
Chú ý: Bón lót nhiều kali sẽ cho củ to, mẫu mã đẹp. Không bón phân chuồng tươi vì có nhiều vi khuẩn nấm bệnh làm cho mã củ không đẹp và khoai dễ bị thối. Chỉ dùng phân chuồng hoai mục.
Bà Con có thể tham khảo phân bón Vigami® Kami Siêu to củ và Vigami® Boson của Việt Gia Minh.
6. Chăm sóc khoai tây
Phủ luống
Sau trồng có thể phủ luống khoai tây bằng chất liệu hữu cơ như: rơm, rạ hoặc mùn mục để tạo độ tơi xốp cho đất, giúp cho việc trao đổi chất.
Xới xáo, làm cỏ, vun gốc
– Khi cây mọc lên khỏi mặt đất 7 – 10 ngày, cao khoảng 15 – 20cm tiến hành chăm sóc lần 1 bằng cách xới nhẹ, làm sạch cỏ, bón thúc đợt 1 rồi vun luống, kết hợp tỉa cây để lại 2 – 3
mầm chính.
– Cách lần 1 từ 15 – 20 ngày khi đã qua tưới nước lần 2 thì tiến hành xới nhẹ, làm cỏ và vun luống lần cuối, lấy đất ở rãnh vun cho luống to và cao, dày cố định luôn, vun luống không đủ đất sẽ làm vỏ củ bị xanh hoặc mọc thành cây. Vét đất ở rãnh để khi ruộng bị nước sẽ nhanh khô.
Tưới nước
Thường xuyên giữ đất đủ ẩm, dùng nguồn nước sạch để tưới. Trong 60 – 70 ngày đầu khoai rất cần nước, nếu thiếu nước hoặc nước trong ruộng không đồng đều lúc khô, lúc ẩm làm củ bị nứt, chất lượng củ và năng suất giảm.
Có hai phương pháp tưới cho khoai tây:
– Tưới gánh: Không tưới nước trực tiếp vào gốc khoai mà tưới xung quanh gốc. Có thể kết hợp tưới với phân đạm và kali nhưng phải chú ý lượng phân hòa với nước, thùng 10 – 12 lít chỉ pha 1 nắm phân nhỏ là vừa. Không kết hợp tưới nước với phân chuồng vì có nhiều nấm gây thối củ.
– Tưới rãnh: Với ruộng phẳng, cho nước ngập 1/2 rãnh, khi nước ngấm đều thì tháo kiệt, tránh để nước đọng ở rãnh trong thời gian dài sẽ làm phát sinh và lây lan nguồn bệnh. Đặc biệt, khi phát hiện trên ruộng có bệnh héo xanh vi khuẩn thì tuyệt đối không được tưới rãnh vì sẽ tạo điều kiện cho bệnh lây lan rộng.
Từ khi trồng đến khi khoai 60 – 70 ngày thường có 3 lần tưới nước. Tưới phải kết hợp với xới xáo, làm cỏ, bón phân thúc.
Tưới lần 1: Sau trồng khoảng 2 – 3 ngày, khi khoai mọc cao khoảng 20 – 25 cm, nếu đất khô có thể dẫn nước vào ruộng, mỗi lần chỉ cho vào 3 – 4 rãnh, khi đủ nước thì cho tiếp vào 3 – 4 rãnh khác, lấp đầy rãnh củ, tháo đầu rãnh mới để nước thêm đều vào luống. Đất cát pha cho ngập 1/2 luống; đất thịt nhẹ cho ngập 1/3 luống, cho nước vào cùng một lúc nhiều rãnh hơn.
Tưới lần 2: Khoảng 2 – 3 tuần sau lần 1, đất cát pha cho nước ngập 2/3 luống, đất thịt nhẹ cho ngập 1/2 luống làm như lần 1. Kết hợp bón thúc đợt 1 và khử lẫn cây lẫn giống, nhổ bỏ cây bệnh.
Tưới lần 3: Sau lần tưới 2 khoảng 15 – 20 ngày tiến hành tưới nước lần 3. Đợt tưới nước này cũng là kết thúc cho chu kỳ sản xuất khoai tây, kết hợp bón thúc đợt 2 và khử lẫn cây lẫn giống, nhổ bỏ cây bệnh.
Chú ý: Trước khi thu hoạch khoảng 2 tuần cần ngừng tưới nước. Nếu trời mưa phải tháo nước kịp thời để đất khô ráo tuyệt đối.
7. Phòng trừ sâu bệnh hại khoai tây
Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng và khuyến khích áp dụng các biện pháp quản lý cây trồng tổng hợp (sử dụng giống kháng bệnh, thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, kỹ thuật làm đất, bón phân, luân xen canh cây trồng hợp lý, vệ sinh đồng ruộng…)
Sâu hại khoai tây
Sâu xám: Sâu xám phát sinh nhiều trong điều kiện thời tiết lạnh, ẩm độ cao, chủ yếu phá hại từ tháng 11 đến cuối tháng 2 ở giai đoạn cây còn nhỏ. Sâu xám thường cắn ngang gốc cây khi khoai tây đang ở thời kỳ mọc. Khoảng 9 – 10 giờ tối sâu xám ở dưới đất chui lên mặt đất và bám vào cây để ăn lá, đến khoảng 5 – 6 giờ sáng thì chui xuống gốc cây hoặc dưới đất để ẩn.
Biện pháp phòng trừ: Dẫn nước ngập ruộng trước khi chuẩn bị đất để trồng. Soi đèn bắt sâu vào 9 – 10 giờ tối hoặc vào buổi sáng sớm. Dùng bẫy chua ngọt để bẫy bướm (4 phần đường đen + 4 phần dấm + 1 phần rượu + 1 phần nước + 1% thuốc).
Nhện trắng: Nhện trắng thường xuất hiện và gây hại khi thời tiết ấm. Chúng tụ tập ở mặt dưới lá non, ngọn cây và chích hút dịch làm cho lá và ngọn quăn lại.
Bọ trĩ: Bọ trĩ xuất hiện và gây hại khoai tây khi thời tiết ấm. Chúng chích hút dịch lá làm cho lá bị khô và chết.
Rệp: Rệp có cơ thể hình bầu dục, thuôn dài, quanh mình có sáp trắng. Rệp cái không có cánh, rệp đực có cánh, trứng có lớp lông sáp phủ kín.
Rệp nhỏ, dài khoảng 1 – 2 mm. Rệp sống trên nhiều loại cây. Với cây khoai tây, thời kỳ cây sinh trưởng mạnh (30 – 60 ngày tuổi) thường có rệp xuất hiện. Chúng tụ tập ở phần ngọn, ở các nách lá, nằm dưới mặt lá. Khi khoai gần thu hoạch, rệp sống chủ yếu ở gốc cây, bám vào mắt củ khoai gần mặt đất. Đến khi bảo quản, nhất là bảo quản bằng kho tán xạ thì rệp sống tập trung ở mắt củ, xung quanh mầm để hút dịch, làm thui mầm khoai.
Sâu hà khoai tây: Sâu hà khoai tây chưa xuất hiện ở vùng trồng khoai tây miền Bắc, nhưng đã có ở Đà Lạt từ lâu. Sâu hà khoai tây gây hại ở thân, lá và củ. Khi chuyển giống khoai tây từ Đà Lạt đi vùng khác cần lưu ý đối tượng này để tránh lây lan.
Bệnh hại khoai tây
Bệnh virus xoăn lùn: Do virus Y gây ra, đây là loại bệnh phổ biến ở Việt Nam. Bệnh xoăn lùn thường làm giảm từ 10 – 90% năng suất.
Triệu chứng thường gặp: Khi khoai tây bị bệnh này lá bị xoăn lại, cây còi cọc thấp lùn xuống, lá bị nhăn, phiến lá gồ ghề không phẳng, phiến lá có màu xanh đậm xen kẽ xanh nhạt trông không bình thường, củ nhỏ và ít củ.
Bệnh vi rút khảm: Do vi rút X, S và M gây ra, bệnh ít nghiêm trọng hơn nhưng lại rất phổ biến ở Việt Nam, làm giảm năng suất 10 – 15%.
Triệu chứng thường gặp: Cây bị bệnh vi rút khảm trên phiến lá có những vết đốm màu vàng nhạt xen với màu xanh tạo thành vết khảm lốm đốm.
Bệnh virus cuốn lá (PLRV): Gây hại nghiêm trọng và làm giảm năng suất tới 90%.
Triệu chứng thường gặp: Cây bị vi rút cuốn lá thì lá phía dưới bị cong cuộn lên, khi nắm lá vào tay và bóp mạnh, lá bị gãy giòn.
Biện pháp phòng trừ bệnh vi rút:
– Diệt trừ các tác nhân truyền bệnh như rệp và bọ phấn… Sử dụng giống sạch bệnh và nhổ bỏ cây bệnh. Bón phân cân đối, không bón nhiều phân đạm. Luân canh cây trồng, thu dọn tàn dư cây bệnh trên đồng ruộng. Không trồng khoai tây gần ruộng trồng cà chua, bầu bí.
– Gieo ươm cây con trong nhà lưới ngăn cản bọ phấn gây hại. Nhổ bỏ cây bị bệnh trên ruộng để tiêu hủy.
Bệnh héo xanh: Bệnh héo xanh do vi khuẩn Ralstonia solanacearum gây nên. Đây là loại bệnh nghiêm trọng phổ biến ở vùng nhiệt đới nóng ẩm và lây lan nhanh.
Biện pháp phòng trừ:
– Sử dụng củ giống sạch bệnh, không bón phân tươi và nhổ bỏ cây bệnh.
– Luân canh với lúa nước, không nên trồng khoai tây ở những ruộng mà trước đó vừa mới trồng khoai tây, cà chua, cà hoặc thuốc lá…
Bệnh mốc sương: Do nấm Phytophthora infestans gây nên. Khi nhiệt độ xuống thấp từ 15 – 180C có mưa phùn kéo dài, trời nhiều mây mù, độ ẩm không khí cao thường phát sinh bệnh mốc sương.
Bệnh héo vàng: Bệnh héo vàng do nấm Fusarium spp. gây nên, cũng không thành dịch nghiêm trọng, nhưng khi trời nóng dễ xảy ra ở thời kỳ mọc và cây phát triển, làm cho củ bị bệnh, gây ra thối khô trong kho bảo quản. Ban đầu những lá ở phía dưới bị vàng úa, sau đó những lá trên ngọn cũng vàng rồi héo và chết toàn cây. Bào tử nấm trên cây rơi xuống đất và xâm nhập vào củ. Nấm héo vàng bám vào củ khó phát hiện hơn nấm lở cổ rễ nên khi loại củ bị bệnh khó hơn và gây nên củ bị thối khô trong kho.
8. Thu hoạch và bảo quản
Thu hoạch
– Trước khi thu hoạch cần loại bỏ cây bệnh, cắt bỏ thân lá để hạn chế bệnh hại truyền về củ giống. Thu hoạch khoai tây ở thời điểm phù hợp khi thấy lá vàng, cây rạc dần với thời tiết khô ráo. Khoai tây giống thu hoạch sớm hơn 5 – 7 ngày so với khoai thương phẩm.
– Khi thu hoạch, cần phân loại cỡ củ, củ to và nhỏ riêng rẽ, để nhẹ nhàng cho vào sọt ngay trên đồng ruộng để tránh sự sây sát.
Bảo quản
– Loại bỏ những củ bị dập, không nguyên vẹn. Bảo quản ở nơi khô, tối và thoáng khí.
– Khoai thương phẩm đóng gói trong bao bì, vận chuyển đến nơi tiêu thụ.
9. Kết luận
Khoai tây mang lại nhiều lợi ích với kỹ thuật đơn giản và năng suất cao nhưng đòi hỏi cần chú ý đến nhiều yếu tố như chọn giống, thời gian trồng, kỹ thuật trồng và chăm sóc cây. Hy vọng những kiến thức trên có thể giúp ích cho bà con trong quá trình canh tác cây khoai tây. Chúc bà con sức khỏe và có những mùa vụ bội thu!